Những ngày này, con đê xã Tứ Kỳ (Hải Dương) nhộn nhịp người săn rươi - thứ "lộc trời" có thể mang lại thu nhập khoảng 100 triệu đồng mỗi ngày. 1. Chả rươi: Đối với rươi, bạn cần để ý một chút thì mới mua được rươi tươi ngon, do rươi thường chỉ có vào đúng một vài ngày, vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10 âm lịch hằng năm (tháng Chín đôi mươi, tháng Mười mùng năm). "Tháng Chín đôi mươi, tháng Mười mùng năm" là nói về giống rươi đấy. Rươi của thời tiết, báo hiệu tiết trời đã bắt đầu chuyển từ Thu sang Đông. Một năm có hai mùa rươi, vào khoảng tháng Tư, tháng Năm và tháng Chín, tháng Mười âm lịch, nhưng tháng Chín, tháng Tháng ngày vừa biệt ly Bạn bè bao đứa trốn Chia đôi bờ dại dương Ta một mình ở lại Gặm đã đời đau thương Quê hương vừa cuối mặt Ta quên mình là ai Chồng lên vai tủi nhục Bao dặm trường chông gai Nhớ ra ta là Lính Từng hát bài tự do Bài ca vừa tắt thở Như than hồng hoá tro Tựa lưng con phố mởi Đếm thầm bao cô đơn Ta có trăm ngàn tội VHDN: Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm (âm lịch) đã trở thành dấu ấn thời gian đối với làng tôi suốt hàng trăm năm qua. Cứ đến những ngày này cả làng tôi lại được lộc của thiên nhiên ban tặng - Mùa rươi thứ đặc sản mà không phải nhiều nơi có được. . Câu Chuyện Thầy Lang “Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm”. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Kính gửi Bác sĩ Nguyễn ý Đức Đọc sách cũ, cháu thấy có câu nói, Tháng 9 đôi mươi, tháng 10 mồng 5. Cháu không hiểu rõ ý nghĩa, xin bác sĩ giải thích. Xin cảm ơn bác Elise Kim. Chào Elise, Hai câu này nói tới những ngày có Rươi, một món ăn rất đặc biệt của vài tỉnh ở miền Bắc Việt Nam. Rươi là gì. Rươi là những sinh vật rất nhỏ nom giống con giun nhưng hai bên mình lại có nhiều lông và nhiều chất nhớt. Rươi tươi, màu hồng hoặc xám bạc, từng con rươi đều tăm tắp, bé chỉ bằng nửa cái đũa tre, dài chừng 5-7 cm. .Lông là bộ phận dẫn đường cho rươi đực và cái tìm đến Việt còn gọi rươi là Rồng Đất, vì hình thù nom tựa như con rồng, mà lại có trong đất. Khoa học phân biệt rươi ra tới hơn 40 chủng loại khác nhau. Ngoài Việt Nam, rươi cũng có ở Indonesia, các quần đảo Samoa, Fji. Tại Việt Nam, rươi có nhiều ở các huyện Thanh Miện, Đông Triều tỉnh Hải Dương; một số địa phương ở Kiến An và Hải phòng, miền Nam thì vài địa phương như huyện Ba Động, Duyên Hải, Trà Vinh ở Trà Vinh cũng có rươi,; miền Trung thì tại hai xã Hưng Lợi và Hưng Nhân, tỉnh Nghệ An. Thường thường rươi xuất hiện vào ban đêm của những ngày 20 tháng 9 và 10 tháng 5 âm lịch. Trứng rươi đẻ từ năm trước, nằm trong đất, tới khi nước thủy triều lên cao vào các ngày này thì nở ra con và nhô lên khỏi mặt đất. Dân chúng thường đốt đèn ban đêm, dùng một loại lưới làm bằng vải màn mà vớt. Rươi được cho vào thùng rồi gánh về thủ đô Hà Nội, thị trấn Hải Phòng, Hải Dương mà Hà Nội hiện nay vẫn còn một con đường nhỏ mang tên Phố Hàng Rươi, mà người Pháp trước đây gọi là Rue Des Vers Blancs, Đường của những con sâu mầu trắng. Có nhiều cách để ăn rươi hấp, rán, xào, chả rươi, mắm rươi. Chả rươi gồm thịt nạc băm nhỏ, trứng đánh nhuyễn, thì là tươi xanh, vài miếng vỏ quýt thái nhỏ li ti, ướp với nước mắm, hạt tiêu trộn với rươi. Đổ vào chảo rán nhỏ lửa, chả rươi có một hương vị rất đặc biệt, thơm lừng ra tới hàng xóm. Rươi hấp với mộc nhĩ, củ hành tươi, thì là, nước mắm vỏ quýt. Đây là món ăn thanh lịch, ngon lại có rất ít chất béo. Mắm rươi ăn với thịt he oba chỉ luộc kèm theo những ngọn rau thơm, rau riếp, thì ngon tuyệt trần gian. Rươi là món ăn quý hiếm, chỉ có mỗi năm một lần và trong vài ngày nên quý nhau mới thết nhau một bữa ăn rươi. Muốn có rươi ăn, thường thì phải đặt trước, vì số lượng rươi thì giới hạn, mà khách sành điệu muốn ăn lại nhiều. Có điều là khi ăn thì quên đi hình ảnh con rươi lúc còn sống, thân hình đỏ hỏn mà lông lại nhiều, phủ kín thân, nom mà sờ sợ. Ấy vậy mà có người biệt xứ cả nửa thế kỷ, về Hà Nội được bạn bè khi xưa dành cho một đĩa chả rươi, thì cảm động biết mấy. Rươi với văn học dân gian Dân gian ta đã có câu vè đố nhau về rươi như sau Con gì bé tí tì ti? Mình đi dưới đất, bóng đi trên trời? Một năm mấy bận đi chơi? Đi thì lở đất long trời mới yên? Hoặc các câu ca dao về rươi rất tình cảm như Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn nhộng, Hoặc, Bao giờ cho đến tháng mười, bát cơm thì trắng bát rươi thì đầy. Tình tự quê hương là như vậy đấy, Elise ạ. Chỉ tiếc một điều là quê hương mình bây giờ khác xưa quá nhiều, khác từ tình người tới chế độ, theo chiều hướng xấu nhiều hơn là đáng buồn! Bác rất xúc động khi thấy cháu tuy ở thế hệ sau mà còn tưởng nhớ tới quê hương. Chúc cháu mọi sự bình an. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức. Mời xem thêm Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao. Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành. Định nghĩa - Khái niệm tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm có ý nghĩa là gì? Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm nghĩa là gì. Khoảng 20 tháng 9 và mồng 5 tháng 10 là thời kỳ nước triều mạnh triều cường và có mưa rơi. Thuật ngữ liên quan tới tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm ma ăn mày bụt, bụt chẳng thèm ăn mày ma là gì? được tiếng khen ho hen chẳng còn là gì? mười voi không được bát nước xáo là gì? cháy nhà hàng xóm, bằng chân như vại là gì? nát ruột nát gan là gì? vì sông nên phải luỵ đò là gì? sẩy chân còn hơn sẩy miệng là gì? ngày lành tháng tốt là gì? lọng máu cáo, áo hoa thiên là gì? nhiều tiền ăn thịt, ít tiền ăn nây là gì? trâu mạnh trâu được, cỏ mạnh cỏ được là gì? cày sâu cuốc bẫm là gì? gió chiều nào che chiều nấy là gì? của chìm, của nổi là gì? trăm ông chú không bằng một mụ bà cô là gì? Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm có nghĩa là Khoảng 20 tháng 9 và mồng 5 tháng 10 là thời kỳ nước triều mạnh triều cường và có mưa rơi. Đây là cách dùng câu tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm. Thực chất, "tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2023. Kết luận Hôm nay bạn đã học được thành ngữ tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới. Muốn ăn lúa tháng mười Muốn ăn lúa tháng mười, Trông trăng mùng tám tháng tư. Cùng thể loại Ráng vàng trời nắng, ráng trắng trời mưa Ráng vàng trời nắng, ráng trắng trời mưa Rung kêu đàng nam, cá vàng cá bạc Rung kêu đàng nam, cá vàng cá bạc Rung kêu đàng bắc, bốc muối ra ăn Bà rú Lông đi ông rú Trà Bà rú Lông đi ông rú Trà Kẻ Cài reo Kẻ Treo khóc Kẻ Cài reo, kẻ Treo khóc Mưa bên Quát lấy quạt mà che Mưa bên Quát lấy quạt mà che, Mưa kẻ E lấy bè mà chở Mống mọc đàng đông, bồ không lại có Mống mọc đàng đông, bồ không lại có Mống mọc đàng tây bồ đầy lại lưng Cơn truông Nu, đập tru mà chạy Cơn truông Nu, đập tru mà chạy Mống cụt không lụt thì bão Mống cụt không lụt thì bão Mống bạc sạch đồng Mống bạc sạch đồng Một cơn mống bạc, một đạc nước xanh Một cơn mống bạc, một đạc nước xanh Có cùng từ khóa Cần tái, cải nhừ Cần tái, cải nhừ Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Dị bản Đầu công, mình cốc, quản ngắn, đùi dài, cánh vỏ trai, mỏ búp chuối Lợn rọ, chó thui Lợn rọ, chó thui Lợn nhà, gà chợ Lợn nhà, gà chợ Gà nâu chân thấp mình to Gà nâu chân thấp mình to Đẻ nhiều trứng lớn, con vừa khéo nuôi Chẳng nên nuôi giống pha mùi Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về Gà lấm lưng, chó sưng đồ Gà lấm lưng, chó sưng đồ Ra đi mẹ có dặn dò Ra đi mẹ có dặn dò Ruộng rộc thì cấy, ruộng gò thì gieo Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm Tháng chín đôi mươi Tháng mười mùng năm Ráng Những đám mây sáng rực, có màu vàng hay màu hồng sẫm, do phản xạ ánh sáng mặt trời vào lúc rạng đông hay chiều tà. Từ màu sắc của ráng, nhân dân ta có thể dự đoán được thời tiết. Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in Chinh phụ ngâm khúc Ráng chiều Ảnh Trương Công Khả Rung Tiếng ì ầm của biển phương ngữ Thanh Hóa. Đàng Đường, hướng phương ngữ Trung và Nam Bộ. Bà rú Lông đi ông rú Trà Về mùa gió Lào, gió thường đổi chiều từ rú Lông gây nên những cơn lốc nhỏ thổi xuống rú Trà đều thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, gây hại cho nhà cửa, mùa màng. Người dân gọi hiện tượng này là bà thần rú Lông đi thăm ông thần rú Trà. Kiệt Thạch Tên Nôm là kẻ Cài, một làng nằm dưới chân núi Cài, nay thuộc địa phận xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Độ Liêu Tên Nôm là kẻ Treo, một làng nay là phường đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là quê hương của Bùi Cầm Hổ, một vị quan thời Lê sơ. Tên "kẻ Treo" cũng bắt nguồn từ công trình dẫn nước trên núi về đồng ruộng của Bùi Cầm Hổ. Kẻ Quát Một làng nằm về phía tả ngạn sông Ngàn Phố, thuộc địa phận xã Sơn Giang huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Xuân Trì Tên Nôm là kẻ E, một làng nay thuộc xã An Hòa Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Mống Cầu vồng phương ngữ. Bồ Đồ cỡ lớn đựng thóc lúa, thường đan bằng tre. Bồ và cối xay thóc Truông Nu Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Truông Nu, hãy đóng góp cho chúng tôi. Tru Trâu phương ngữ một số vùng Bắc Trung Bộ. Mống bạc sạch đồng Cầu vồng mống màu trắng là điềm báo mưa to, lũ lụt. Đạc Dạo, đợt "đạc ni" nghĩa là "dạo này," phương ngữ Bắc Trung Bộ. Rau cần Một loại rau xanh thường được nhân dân ta trồng để nấu canh, xào với thịt bò, hoặc làm vị thuốc. Canh cá nấu cần Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Lưng thẳng, cân đối trông như chữ “cụ” 具, vú đầy đặn, săn chắc hình dáng như chữ “tâm” 心 là hai nét hay gặp của người phụ nữ mắn đẻ, khéo nuôi con. Công Một loài chim thuộc họ Trĩ, có tên Hán Việt là khổng tước. Chim trống bộ lông có màu lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim mái. Công mái không có đuôi dài và đẹp như công trống. Chim công Cốc Loài chim lội nước thuộc họ Bồ nông, thức ăn là các loại động vật thủy hải sản nhỏ Chim cốc Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Những tiêu chuẩn để chọn gà chọi tốt. Lợn rọ, chó thui Lợn nằm trong rọ thì khó biết gầy béo, chó đã thui rồi thì không biết là chó lành hay chó bệnh. Lợn nhà, gà chợ Kinh nghiệm dân gian mua lợn ở nhà để chọn được giống tốt, mua gà ngoài chợ để được chọn thoải mái. Đồ Từ tục, chỉ bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Gà lấm lưng, chó sưng đồ Gà mái bị trống đạp nên lưng bị lấm, chó cái bị nhảy sưng bộ phận sinh dục. Theo kinh nghiệm dân gian, gà và chó thời kì động dục thì thịt ngon. Rộc Đất trũng ven các cánh đồng, hoặc giữa hai sườn đồi núi. Cũng có nghĩa là ngòi nước nhỏ, hẹp. Ruộng gò Ruộng làm ở chỗ đất gò, đất cao. Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm Một kinh nghiệm về bắt rươi. Vào ban đêm những ngày 20 tháng 9 và mùng 5 tháng 10 âm lịch, nước thủy triều dâng lên, rất nhiều rươi chui ra khỏi mặt đất gọi là nứt lỗ rươi. Mồng chín tháng chín có mưa Mồng chín tháng chín có mưa Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn Mồng chín tháng chín không mưa Thì con bán cả cày bừa đi buôn. Cùng thể loại Trời cho cày cấy đầy đồng Trời cho cày cấy đầy đồng Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê Một mai gặt lúa đem về Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung Chồng chài, vợ lưới, con câu Chồng chài, vợ lưới, con câu, Sông Ngô bể Sở biết đâu là nhà. Ví dù theo lái xuống tàu Ví dù theo lái xuống tàu Thì em mới biết cá gầu có gai Con bơn, con nhệch là hai Con còng, con ghẹ, nó tài đào hang Kể rằng cá đuối bơi ngang Cái đuôi có điện ra đàng làm cao Lại tăm con cá đuối sao Nước lên cả nước gặp ngay cá ngần Biển sâu lại có chướng ngầm Cá ăn nó lượn ba lần nó ra Cá Ông thì ở bể xa Lưỡng long chầu nguyệt có ngà đôi bên Lần đầu xuống bến xuống thuyền Sao mà em biết nhãn tiền cá Ông Ví dù em có sang sông Thì em mới biết cá Ông chầu đền Kể từ mặt biển kể lên Chim, thu, nhụ, đé, vược hên nhất đời Cá he ngậm nước bao giờ Mà em dám nói đổ ngờ cá he Kể cả con cá mòi he Xương dăm vẫn mặc cứ le cho vào Kể từ con cá chuồn hoa Nó nhảy một cái qua ba lần thuyền Kể từ con cá đối đen Bắt được đi bán lấy tiền ăn chơi Dưới bể có cả đồi mồi Có con lợn bể nó bơi cả ngày Kể cả con cá mó tày Vàng xanh cả vẩy cả vây cũng mừng Kể cả con mực, con nhưng Cứ cầm cho chặt lưới thừng không buông Con mực nhuộm đục cả luồng Đón đuôi thả lưới mà buông đến cùng Cá mập bơi lội vẫy vùng Khoanh tay vược lộn ở vùng bể Đông Kể từ cá mú, cá song Cá nhung, cá cúng, cá hồng Áng Gai Cá sông kể cũng rất tài Cá mè, cá chép, ở khe ngọn nguồn Trở giời nó mới lượn lên Ví dù em ở đồng trên gần nguồn Thì em mới biết nguồn cơn Thì em mới biết cá rô, trê đồng Bây giờ em chưa có chồng Làm gì em biết thuộc lòng cá chim? Em đây chính thực anh hùng Em đây chính thực anh hùng Em đi chắn lưới ở vùng Vạn Hoa Chắn từ Cái Rồng mà ra Chắn đến Xà Kẹp chắn qua Bãi Dài Cái Bàn chắn từ Hòn Hai Chắn sang Cây Khế, Cái Đài hai hôm Vụng Đài thấp nước bồn chồn Cửa Mô sóng vỗ đầu cồn lao xao Rồi ra ta sẽ chèo vào Lò Vôi chốn ấy ta vào chắn chơi Sau thì ta sẽ nghỉ ngơi Ta chèo vào phố đậu chơi mấy ngày Chắn quanh cái khúc sông này Chỗ nào thấp nước ta nay làm chuồng Em đây ngỏ thực anh tường Để anh biết thực mọi đường chắn đăng. Lưới anh đánh ở Cửa Mô Lưới anh đánh ở Cửa Mô Bằng gộc, bằng gồ, bằng hốc, bằng hang Con đi học lấy nghề cha Con đi học lấy nghề cha, Một năm đục đá bằng ba năm cày. Ruộng chua mà bón phân lèn Ruộng chua mà bón phân lèn Cũng bằng duyên bạn xe bền duyên tui. Khi mô rú Quyết có mây Khi mô rú Quyết có mây, Cửa Lò có chớp ngày rày hẵng mưa Bao giờ Đại Huệ mang tơi Bao giờ Đại Huệ mang tơi Rú Đụn đội nón thì trời mới mưa Bao giờ mống Mắt mống Mê Bao giờ mống Mắt mống Mê Thuyền câu thuyền lái chèo về cho mau Có cùng từ khóa Cần tái, cải nhừ Cần tái, cải nhừ Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Dị bản Đầu công, mình cốc, quản ngắn, đùi dài, cánh vỏ trai, mỏ búp chuối Lợn rọ, chó thui Lợn rọ, chó thui Lợn nhà, gà chợ Lợn nhà, gà chợ Gà nâu chân thấp mình to Gà nâu chân thấp mình to Đẻ nhiều trứng lớn, con vừa khéo nuôi Chẳng nên nuôi giống pha mùi Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về Gà lấm lưng, chó sưng đồ Gà lấm lưng, chó sưng đồ Ra đi mẹ có dặn dò Ra đi mẹ có dặn dò Ruộng rộc thì cấy, ruộng gò thì gieo Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm Tháng chín đôi mươi Tháng mười mùng năm Bể Sở, sông Ngô Ở khắp mọi nơi Sở và Ngô là hai nước thời Xuân Thu, Trung Quốc. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành Truyện Kiều Ví dầu Nếu mà, nhược bằng từ cổ. Cũng nói là ví dù. Lái Người chuyên nghề buôn chuyến một loại hàng hóa nhất định lái gỗ, lái trâu... Cá mú Tên chung một họ cá biển cho thịt trắng, dai, ngọt. Có ba loại cá mú chính là cá mú đỏ, cá mú đen, cá mú cọp, trong đó cá mú đỏ là loài cá quý hiếm nhất, hai loại còn lại thì hiện nay đang được nuôi khá nhiều. Tùy theo từng địa phương mà cá mú còn được gọi là cá song, cá gàu gầu, cá mao… Cá mú đỏ Thờn bơn Còn gọi là cá bơn, một loại cá thân dẹp, hai mắt nằm cùng một bên đầu. Vì vị trí hai mắt như vậy nên khi nhìn chính diện có cảm giác miệng bị méo. Cá thờn bơn Cá lịch Có nơi gọi là lệch hoặc nhệch, tên chung của một số loài cá-lươn phổ biến. Cá lịch có hình dạng tương tự con lươn, mình thon dài, da trơn không vảy, đuôi thon nhọn, mắt nhỏ. Tùy vào từng loài khác nhau, cá lịch có thể có vây hoặc không vây, cũng như màu da có thể là màu trơn hoặc có đốm hay có sọc. Các loài cá lịch thường sống ở biển hoặc ở vùng nước lợ cửa sông, nhưng cũng có thể bơi ngược dòng đến sống ở sông ngòi hay ruộng đồng nước ngọt. Vào ban ngày, cá lịch chui rúc trong bùn, cát, đến đêm thì bơi ra kiếm ăn ở tầng đáy nước. Thức ăn của cá lịch là các loài cá hay giáp xác nhỏ. Đối với người Việt Nam, cá lịch là một loài thủy sản bổ dưỡng tương tự như lươn. Cá lịch cu Cá lịch đồng Còng Một loại sinh vật giống cua cáy, sống ở biển hoặc các vùng nước lợ. Còng đào hang dưới cát và có tập tính vê cát thành viên nhỏ để kiếm thức ăn. Ngư dân ở biển hay bắt còng làm thức ăn hằng ngày hoặc làm mắm. Con còng Ghẹ Vùng Bắc Trung Bộ gọi là con vọ vọ, một loại cua biển, vỏ có hoa, càng dài, thịt nhiều và ngọt hơn cua đồng. Con ghẹ Cá đuối Một loài cá biển, cùng họ với cá nhám, thân dẹp hình đĩa, vây ngực rộng, xòe hai bên, đuôi dài. Cá đuối Cá ngần Còn gọi là cá ngân, cá cơm ngần, cá sữa, cá thủy tinh, hay cá bún, một loại cá không xương, nhỏ như con tép, màu trắng hoặc trong suốt, sống trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ. Từ cá ngần có thể chế biến ra nhiều món ngon như canh chua, cá chiên trứng, chả cá ngần… Cá ngần Cá Ông Tên gọi của ngư dân dành cho cá voi. Do cá voi có tập tính nương vào vật lớn như thuyền bè mỗi khi có bão, nên nhiều ngư dân mắc nạn trên biển được cá voi đưa vào bờ mà thoát nạn. Cá voi được ngư dân tôn kính, gọi là cá Ông, lập nhiều đền miếu để thờ. Bộ xương cá Ông trong đền thờ ở vạn Thủy Tú, Phan Thiết Lưỡng long chầu nguyệt Hai con rồng chầu mặt trăng cũng gọi là "rồng chầu mặt nguyệt". Đây là chi tiết phù điêu thường gặp trên các mái đình đền, chùa chiền ở nước ta, mang ý nghĩa tâm linh thuần phục thánh thần. Lưỡng long chầu nguyệt Cá chim Một loài cá biển, mình dẹp và cao, mồm nhọn, vẩy nhỏ, vây kín. Cá chim Cá thu Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon. Cá thu Cá nhụ Cũng gọi là cá chét, một loại cá biển thân dài, dẹt bên, đầu ngắn, mắt to. Thịt cá dai, ngọt và nhiều chất dinh dưỡng, xương mềm. Cá thường được chiên lên chấm với nước mắm tỏi, ớt ăn kèm rau sống hoặc nấu canh ngót hoặc sốt cà chua, kho cà chua, kho tiêu, kho tộ… Cá nhụ Cá đé Cũng gọi là cá lặc, một loài cá biển thân dài, đầu ngắn, thân màu trắng bạc. Cá đé có thịt thơm ngon hảo hạng, hiếm có khó tìm, được xếp vào “tứ quý ngư” chim, thu, nhụ, đé, bốn loài cá quý của Việt Nam. Cá đé Cá vược Một loại cá sinh trưởng ở nước ngọt, nước lợ và di cư ra vùng nước mặn để đẻ. Ở nước ta, cá vược phân bố dọc bờ biển từ Bắc đến Nam và được đánh giá có giá trị kinh tế cao, đã được thuần hóa để nuôi cả trong điều kiện nước mặn và nước ngọt. Cá vược nuôi Cá he Một loại cá nước ngọt thường gặp ở miền Tây Nam Bộ, họ hàng với cá mè. Cá he có đuôi và vây màu đỏ, vẩy bạc. Thịt cá he ngon, béo nhưng có nhiều xương. Xem thêm Câu cá he. Cá he Cá mòi Một loại cá thuộc họ cá trích, có tập tục bơi thành đàn từ biển ngược lên nguồn vào tháng giêng để đẻ trứng, vì vậy nhân dân ta thường giăng lưới bắt cá mòi ở sông vào dịp này. Cá mòi ngon nhất là trứng cá, và thường được chế biến thành các món nướng, món kho. Cá mòi có hai loại cá mòi lửa và cá mòi he. Cá mòi Cá chuồn Tên một họ cá biển có chung một đặc điểm là có hai vây ngực rất lớn so với cơ thể. Hai vây này như hai cánh lượn, giúp cá chuồn có thể "bay" bằng cách nhảy lên khỏi mặt nước và xòe vây lượn đi, có thể xa đến khoảng 50 mét. Cá chuồn sống ở những vùng biển ấm, thức ăn chủ yếu của chúng là các phiêu sinh vật biển. Ở nước ta, cá chuồn có nhiều ở những vùng biển miền Trung. Cá chuồn có thể chế biến thành nhiều món ăn như nướng, kho, nấu bún... Cá chuồn đang bay. Cá đối Một loại cá có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn, màu bạc. Cá đối được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như cá đối nướng, cá đối chiên, cá đối kho dưa cải, cháo cá... Cá đối kho thơm Đồi mồi Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ lược, vòng tay, vòng đeo cổ.... Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi. Con đồi mồi Lợn biển Động vật có vú thuộc bộ bò biển, sống ở biển hoặc cá vùng cửa sông, có thân hình to lớn cá thể trưởng thành nặng khoảng nửa tấn, chuyên ăn các loại thực vật dưới biển. Lợn biển Cá mó Cũng gọi là cá lưỡi mèo hoặc cá vẹt, một loài cá biển có thân hình dẹt, khá mềm, rất nhiều thịt. Thịt của cá mó có hương vị đậm đà, dễ chế biến thành các món kho, chiên hay canh. Cá mó Nhưng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Nhưng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá nhung Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá nhung, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá cúng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá cúng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá hồng Loài cá có thân bầu dục dài dẹt, thân cá có màu hồng, viền lưng cong đều, viền bụng tương đối thẳng. Đầu cá lõm, mõm dài và nhọn, vây lưng dài, có gai cứng khỏe. Đa số các giống cá hồng sống ở biển, trừ một số ít loài sống trong môi trường nước ngọt. Cá hồng biển Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Cá mè Tên chung của một số loài cá nước ngọt cùng họ với cá chép, có thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng. Có nhiều loài cá mè, nhưng cá mè trắng và mè hoa là phổ biến hơn cả. Nhân dân ta đánh bắt cá mè để lấy thịt, mỡ và mật cá, vừa để chế biến thức ăn vừa làm thuốc. Cá mè Cá chép Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh. Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. Cá chép Cá rô Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún... Lưu ý Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng. Cá rô đồng kho tộ Cá trê Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi. Cá trê Chắn đăng Giăng đăng ở những vịnh, vũng để đón cá theo con nước xuống. Vạn Hoa Vùng biển thuộc đảo Cái Bầu Kế Bào, nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây cũng có bến cảng và núi cùng tên là Vạn Hoa. Cảng Vạn Hoa Port-Wallut thập niên 1920 Cái Rồng Địa danh nay là thị trấn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đồng thời cũng là tên cảng biển ở đây. Cảng Cái Rồng Xà Kẹp Địa danh nay thuộc xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Bãi Dài Một bãi biển nằm trong khu vực vịnh Bái Tử Long, thuộc địa phận huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay đây là một địa điểm du lịch rất nổi tiếng. Bãi Dài Vân Đồn Cái Bàn Tên một hòn đảo nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn Hai Tên chung của hai hòn đảo nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn Hai Cây Khế Một hòn đảo nay thuộc địa phận thôn Đông Tiến, xã Đông Xá, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cái Đài Một vùng biển thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Vụng Đài Chuối Một vụng biển nay thuộc địa phận xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cửa Mô Tên một vùng biển nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cồn Đảo nhỏ và thấp. Ở miền Trung và Nam Bộ, cồn còn được gọi là cù lao hoặc bãi giữa, là dải đất hình thành ở giữa các con sông lớn sông cái nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm. Cồn Phụng thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang Lò Vôi Địa danh nay thuộc thôn Đông Thắng, xã Đông Xá, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Đục đá Khai thác đá núi để sản xuất các dụng cụ dân sinh như cầu cống, cối giã gạo, cối xay bột… Đây là nghề phổ biến ở một số làng quê gần các núi đá lèn ở Nghệ An - Hà Tĩnh. Lèn Núi đá vôi phương ngữ Bắc Trung Bộ. Dũng Quyết Cũng gọi là rú núi Quyết, một ngọn núi nằm trong quần thể Lâm viên Núi Quyết thuộc địa bàn phường Trung Đô, thành phố Vinh, Nghệ An. Từ xưa núi đã được đánh giá là có thế Long, Ly, Quy, Phượng, được vua Quang Trung chọn là nơi đóng đô, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Đền thờ vua Quang Trung trên núi Quyết Cửa Lò Một địa danh ven biển nay là thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An và là một địa điểm du lịch nổi tiếng. Bãi biển Cửa Lò Đại Huệ Tên dân gian là rú núi Nậy, dãy núi nằm ở phía Bắc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hùng Sơn Tên dân gian là rú núi Đụn, dãy núi cao 300m nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An. Trên núi có thành cổ Vạn An, đền thờ và khu mộ Mai Hắc Đế, di tích động Lỗ Ngồi… Mống Cầu vồng phương ngữ. Mắt, Mê Hai hòn đảo nhỏ thuộc các huyện Diễn Châu, Nghi Lộc, tỉnh nghệ An. Rau cần Một loại rau xanh thường được nhân dân ta trồng để nấu canh, xào với thịt bò, hoặc làm vị thuốc. Canh cá nấu cần Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Lưng thẳng, cân đối trông như chữ “cụ” 具, vú đầy đặn, săn chắc hình dáng như chữ “tâm” 心 là hai nét hay gặp của người phụ nữ mắn đẻ, khéo nuôi con. Công Một loài chim thuộc họ Trĩ, có tên Hán Việt là khổng tước. Chim trống bộ lông có màu lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim mái. Công mái không có đuôi dài và đẹp như công trống. Chim công Cốc Loài chim lội nước thuộc họ Bồ nông, thức ăn là các loại động vật thủy hải sản nhỏ Chim cốc Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Những tiêu chuẩn để chọn gà chọi tốt. Lợn rọ, chó thui Lợn nằm trong rọ thì khó biết gầy béo, chó đã thui rồi thì không biết là chó lành hay chó bệnh. Lợn nhà, gà chợ Kinh nghiệm dân gian mua lợn ở nhà để chọn được giống tốt, mua gà ngoài chợ để được chọn thoải mái. Đồ Từ tục, chỉ bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Gà lấm lưng, chó sưng đồ Gà mái bị trống đạp nên lưng bị lấm, chó cái bị nhảy sưng bộ phận sinh dục. Theo kinh nghiệm dân gian, gà và chó thời kì động dục thì thịt ngon. Rộc Đất trũng ven các cánh đồng, hoặc giữa hai sườn đồi núi. Cũng có nghĩa là ngòi nước nhỏ, hẹp. Ruộng gò Ruộng làm ở chỗ đất gò, đất cao. Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm Một kinh nghiệm về bắt rươi. Vào ban đêm những ngày 20 tháng 9 và mùng 5 tháng 10 âm lịch, nước thủy triều dâng lên, rất nhiều rươi chui ra khỏi mặt đất gọi là nứt lỗ rươi. Câu hỏi câu tục ngữ tháng chín đôi mươi thang mười mồng năm thể hiện nôi dung gì Phân tích từng câu tục ngữ theo những nội dung saua. Nghĩa của câu tục Cơ sở thực tiễn của kinh nghiệm nêu trong câu tục Một số trường hợp có thể áp dụng kinh nghiệm nêu trong câu tục ngữ. Ví dụ, có thể ứng dụng câu 1 vào việc sử dụng thời gian cho phù hợp ở mùa hè, mùa đông như thế nào?d. Giá trị của kinh nghiệm mà câu tục ngữ thể tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tốiMau sao thì nắng, vắng sao thì mưaRáng mỡ gà có nhà thì giữTháng bảy kiến bò chỉ...Đọc tiếp Xem chi tiết Ý nghĩa của câu tục ngữ "Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngà tháng mười chưa cười đã tối" Xem chi tiết II-Tự luậnEm hiểu thế nào về câu tục ngữ “Đêm tháng năm chưa năm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối”? Xem chi tiết - Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối- mau sao thì nắng vắng sao thì mưa - Nhất thì , nhì thục tìm một câu tục ngữ có cùng chủ đề với từng câu tục ngữ trên mà em biết Xem chi tiết Xét câu tục ngữ Một nghề cho chín còn hơn chín nghềaTrong câu tục ngữ có những từ đồng âm nào?bNghĩa của những từ đồng âm đó là gì?cLời khuyên nào trong câu tục ngữ ?dTìm những câu tục ngữ có nội dung như trên Xem chi tiết nêu giá trị kinh nghiệm của câu tục ngữ sauĐêm tháng năm chưa nằm đã sáng,Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Xem chi tiết Những câu sau câu nào là câu tục ngữ câu nào là câu thành ngữ ? Dựa vào đâu em khẳng định đó là câu tục ngữ ?- Đi một ngày đàng học một ràng khôn - Đánh trống bỏ dùi- Một mặt người bằng mười mặt của- Đêm tháng năm chưa nằm đã sánG Ngày tháng mười chưa cười đã tối- Nước mắt cá sấu- Tứ cố vô thân Xem chi tiết Em hãy nêu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của các câu tục ngữ sau1. Đêm tháng năm chưa nằm đã sángNgày tháng mười chưa cười đã tối2. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa3. Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ4. Tấc đất, tấc vàng5. Nhất thì, nhì thục Xem chi tiết Bài 3 Cho câu tục ngữ "Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối"Em hãy phân tích nghệ thuật của câu tục ngữ với Xem chi tiết

tháng chín đôi mươi tháng mười mùng năm